007
07-03-2010, 05:29
Quê Hương
tác giả: Giang Nam
Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường
Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ:
"Ai bảo chăn trâu là khổ ?"
Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao
Nhớ những ngày trốn học
Đuổi bướm cầu ao
Mẹ bắt được...
Chưa đánh roi nào đã khóc
Có cô bé nhà bên
Nhìn tôi cười khúc khích...
Cách mạng bùng lên
Rồi kháng chiến trường kỳ
Quê tôi đầy bóng giặc
Từ biệt mẹ tôi đi
Cô bé nhà bên (có ai ngờ)!
Cũng vào du kích
Hôm gặp tôi vẫn cười khúc khích
Mắt đen tròn (thương thương quá đi thôi)
Giữa cuộc hành quân không nói được
một lời...
Đơn vị đi qua tôi ngoái đầu nhìn lại
Mưa đầy trời nhưng lòng tôi ấm mãi
Hòa bình tôi trở về đây
Với mái trường xưa, bãi mía, luống cày
Lại gặp em
Thẹn thùng nép sau cánh cửa
Vẫn khúc khích cười khi tôi hỏi nhỏ
- Chuyện chồng con... (khó nói lắm anh ơi)!
Tôi nắm bàn tay, ngậm ngùi, nhỏ nhắn
Em để yên trong tay tôi nóng bỏng
Hôm nay nhận được tin em
Không tin được dù đó là sự thật
Giặc bắn em rồi quăng mất xác
Chỉ vì em là du kích em ơi!
Đau xé lòng anh chết nửa con người!
Xưa yêu quê hương vì có chim, có bướm
Có những ngày trốn học bị đòn roi
Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Có một phần xương thịt của em tôi.
1960
Nhà thơ 'Màu tím hoa sim' qua đời
Hữu Loan - tác giả những câu thơ như "Nàng có ba người anh đi bộ đội / Những em nàng / Có em chưa biết nói / Khi tóc nàng xanh xanh" - trút hơi thở cuối cùng tối 18/3, hưởng thọ 95 tuổi.
Tang lễ nhà thơ Hữu Loan sẽ diễn ra vào lúc 15h chiều 19/3. Ông được đưa về nơi an nghỉ cuối cùng tại nghĩa trang xã Nga Lĩnh, Nga Sơn, Thanh Hóa - nơi nhà thơ sinh ra và gần như gắn bó cả cuộc đời nhọc nhằn của mình ở đó. Sáng nay, nhà thơ Hữu Thỉnh - Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam - đã dẫn đầu đoàn Hội Nhà văn lên đường vào xứ Thanh tiễn đưa tác giả Màu tím hoa sim.
Nhà thơ Hữu Loan. Ảnh: st.
Nhà thơ Hữu Loan. Ảnh: st.
Đang dự Hội chợ sách tại TP HCM, nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên chia sẻ cảm giác mất mát khi nghe tin Hữu Loan qua đời. Khoảng một tuần trước Tết dương lịch 2010, ông cùng một số đồng nghiệp vào Thanh Hóa thăm nhà thơ. Ông kể: "Lúc đó, sức khỏe Hữu Loan cũng đã yếu rồi. Ông ốm hơn một năm nay, cộng thêm bị cảm cúm nên gia đình tưởng nhà thơ đã không thể qua khỏi đợt đó. Tuy vậy, Hữu Loan vẫn còn nhớ, vẫn đọc được thơ, nhưng không đọc được trọn vẹn, rõ ràng bài Màu tím hoa sim nữa".
Nhà thơ Phạm Xuân Nguyên cho biết thêm, dù sống cuộc đời rất vất vả cực nhọc, Hữu Loan là người cứng cỏi, mạnh mẽ, ít ốm đau, bệnh tật. Những năm cuối đời, chân ông yếu đi nhiều, gần như bị tê liệt do di chứng của những tháng ngày thồ đá nuôi con vất vả, nhưng đầu óc, tâm trí nhà thơ vẫn rất minh mẫn.
Nhà thơ Hữu Loan và vợ. Ảnh: st.
Nhà thơ Hữu Loan và vợ - bà Phạm Thị Nhu. Ảnh: st.
Hữu Loan, tên thật là Nguyễn Hữu Loan, sinh năm 1916 tại làng Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, Thanh Hóa trong một gia đình nông dân nghèo. Sau khi đỗ tú tài, ông sinh sống bằng nghề dạy học. Từ những năm 1940, nhà thơ tham gia cách mạng và từng làm Phó chủ tịch Ủy ban khởi nghĩa huyện Nga Sơn.
Hòa bình lập lại, ông về Hà Nội làm biên tập viên báo Văn Nghệ, tham gia nhóm Nhân văn Giai phẩm... Đến năm 1958, ông về quê, sống bằng nhiều nghề như: làm ruộng, đánh cá, thồ đá... cho đến lúc qua đời.
Hữu Loan viết cả truyện và ký, nhưng ông nổi tiếng nhất ở lĩnh vực thơ ca với những tác phẩm kinh điển như Đèo cả, Màu tím hoa sim... Đặc biệt, những vần thơ khóc người vợ đầu tiên của ông - Màu tím hoa sim - đã làm xúc động trái tim độc giả từ thế hệ này đến thế hệ khác.
Sau khi người vợ đầu, bà Lê Đỗ Thị Ninh qua đời, nhà thơ Hữu Loan kết hôn với người vợ thứ hai, bà Phạm Thị Nhu - người đã cùng ông vượt qua mọi khó khăn, nuôi dạy 10 đứa con nên người.
Màu tím hoa sim
Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh
Tôi người Vệ quốc quân
xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn
nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
đôi giày đinh
bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
bên anh chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến binh
Mấy người đi trở lại
Nhỡ khi mình không về
thì thương
người vợ chờ
bé bỏng chiều quê...
Nhưng không chết
người trai khói lửa
Mà chết
người gái nhỏ hậu phương
Tôi về
không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
thành bình hương
tàn lạnh vây quanh
Tóc nàng xanh xanh
ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuối
không được nghe nhau nói
không được trông nhau một lần
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa
một mình đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa...
Một chiều rừng mưa
Ba người anh trên chiến trường Đông Bắc
Được tin em gái mất
trước tin em lấy chồng
Gió sớm thu về rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió sớm thu về
cỏ vàng chân mộ chí
Chiều hành quân
Qua những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim
những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
tím chiều hoang biền biệt
Có ai ví như từ chiều ca dao nào xưa xa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu
Ai hỏi vô tình hay ác ý với nhau
Chiều hoang tím có chiều hoang biết
Chiều hoang tím tím thêm màu da diết
Nhìn áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu...
Màu tím hoa sim, tím tình trang lệ rớm
Tím tình ơi lệ ứa
Ráng vàng ma và sừng rúc điệu quân hành
Vang vọng chập chờn theo bóng những binh đoàn
Biền biệt hành binh vào thăm thẳm chiều hoang màu tím
Tôi ví vọng về đâu
Tôi với vọng về đâu
Áo anh nát chỉ dù lâu...
(1949, khóc vợ Lê Đỗ Thị Ninh)
Bài thơ này có nhiều dị bản truyền tụng khác nhau, đây đã được xác nhận là bản gốc.
Đến nay, Màu tím hoa sim được xem là một trong những bài thơ tình hay nhất của thế kỷ 20 và là bài thơ đầu tiên được mua bản quyền bởi một doanh nghiệp với giá 100 triệu đồng. Nhưng quanh sự kiện này, cũng không ít độc giả còn thắc mắc về bản cũ và bản mới chỉnh sửa sau này của bài thơ.
Tại Sài Gòn, trước năm 1975, giới văn nghệ sĩ cũng như đông đảo bạn đọc yêu thích thơ nhạc đều rất quen thuộc với bài Màu tím hoa sim của nhà thơ Hữu Loan. Tuy bấy giờ tác giả đang sống ngoài Bắc, nhưng tác phẩm ấy đã chiếm một chỗ đứng trong lòng người yêu thơ miền Nam. Bài thơ được giới thiệu không những qua sách báo, mà còn được phổ nhạc, hát rộng rãi trên đài phát thanh, các buổi trình diễn văn nghệ trên sân khấu đương thời, nhất là vào những năm thập niên 60 của thế kỷ 20. Bản Màu tím hoa sim thời ấy ngắn hơn bản tác giả công bố sau này. Nghĩa là dừng lại, chấm hết ở mấy câu: "Tôi hát trong màu hoa. Áo anh sứt chỉ đường tà. Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu" chứ không có thêm "Tôi ví vọng về đâu. Tôi với vọng về đâu. Áo anh nát chỉ dù lâu..." ở cuối bài như sau này.
So với bản Màu tím hoa sim "nay" thì bản "xưa" tuy ngắn hơn nhưng ý thơ đi rất trọn nghĩa, trọn tình, không trúc trắc, không khiến người đọc phải dừng lại suy nghĩ. Nhà thơ có quyền sửa thơ của mình, hoặc thêm vào những đoạn mới. Song về phía những độc giả đã cảm nhận, yêu thích, hoặc có những kỷ niệm gắn bó với Màu tím hoa sim theo bản cũ thì khó "làm quen" với những đoạn mới, chữ mới, với hơi thơ có vẻ xa lạ với bài thơ từng biết. Do vậy, một số độc giả đã tỏ ra tâm đắc với bài Màu tím hoa sim trước kia. Nhưng dù Màu tím hoa sim bản "xưa" hay "nay" vẫn chỉ để viết về một người, một mối tình.
Đó là người vợ trẻ Đỗ Thị Lệ Ninh đã mất sau ngày cưới không lâu vì chết đuối. Các anh của "nàng", theo tài liệu của Hàn Anh Trúc là 3 người có thực ở chiến trường Đông Bắc. Đó là Đỗ Lê Khôi - tiểu đoàn trưởng hy sinh trên đồi Him Lam, Đỗ Lê Nguyên nay là Trung tướng Phạm Hồng Cư và Đỗ Lê Khang - nguyên Thường vụ Trung ương Đoàn. Hữu Loan kể và Hàn Anh Trúc ghi lại trong một cuốn biên khảo văn học rằng, bố vợ ông trước kia làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên "vợ mình sinh ở trong ấy, quen gọi mẹ bằng má", bài thơ mới có câu "má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối". Hàn Anh Trúc viết là Hữu Loan sáng tác bài thơ ngay tại mộ người vợ trẻ, rồi: "ghi vào chiếc quạt giấy để lại nhà một người bạn ở Thanh Hóa. Bạn anh đã chép lại và chuyền tay nhau suốt những năm chiến tranh". Điều đó đã được chính nhà thơ Hữu Loan xác nhận.
tác giả: Giang Nam
Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường
Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ:
"Ai bảo chăn trâu là khổ ?"
Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao
Nhớ những ngày trốn học
Đuổi bướm cầu ao
Mẹ bắt được...
Chưa đánh roi nào đã khóc
Có cô bé nhà bên
Nhìn tôi cười khúc khích...
Cách mạng bùng lên
Rồi kháng chiến trường kỳ
Quê tôi đầy bóng giặc
Từ biệt mẹ tôi đi
Cô bé nhà bên (có ai ngờ)!
Cũng vào du kích
Hôm gặp tôi vẫn cười khúc khích
Mắt đen tròn (thương thương quá đi thôi)
Giữa cuộc hành quân không nói được
một lời...
Đơn vị đi qua tôi ngoái đầu nhìn lại
Mưa đầy trời nhưng lòng tôi ấm mãi
Hòa bình tôi trở về đây
Với mái trường xưa, bãi mía, luống cày
Lại gặp em
Thẹn thùng nép sau cánh cửa
Vẫn khúc khích cười khi tôi hỏi nhỏ
- Chuyện chồng con... (khó nói lắm anh ơi)!
Tôi nắm bàn tay, ngậm ngùi, nhỏ nhắn
Em để yên trong tay tôi nóng bỏng
Hôm nay nhận được tin em
Không tin được dù đó là sự thật
Giặc bắn em rồi quăng mất xác
Chỉ vì em là du kích em ơi!
Đau xé lòng anh chết nửa con người!
Xưa yêu quê hương vì có chim, có bướm
Có những ngày trốn học bị đòn roi
Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Có một phần xương thịt của em tôi.
1960
Nhà thơ 'Màu tím hoa sim' qua đời
Hữu Loan - tác giả những câu thơ như "Nàng có ba người anh đi bộ đội / Những em nàng / Có em chưa biết nói / Khi tóc nàng xanh xanh" - trút hơi thở cuối cùng tối 18/3, hưởng thọ 95 tuổi.
Tang lễ nhà thơ Hữu Loan sẽ diễn ra vào lúc 15h chiều 19/3. Ông được đưa về nơi an nghỉ cuối cùng tại nghĩa trang xã Nga Lĩnh, Nga Sơn, Thanh Hóa - nơi nhà thơ sinh ra và gần như gắn bó cả cuộc đời nhọc nhằn của mình ở đó. Sáng nay, nhà thơ Hữu Thỉnh - Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam - đã dẫn đầu đoàn Hội Nhà văn lên đường vào xứ Thanh tiễn đưa tác giả Màu tím hoa sim.
Nhà thơ Hữu Loan. Ảnh: st.
Nhà thơ Hữu Loan. Ảnh: st.
Đang dự Hội chợ sách tại TP HCM, nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên chia sẻ cảm giác mất mát khi nghe tin Hữu Loan qua đời. Khoảng một tuần trước Tết dương lịch 2010, ông cùng một số đồng nghiệp vào Thanh Hóa thăm nhà thơ. Ông kể: "Lúc đó, sức khỏe Hữu Loan cũng đã yếu rồi. Ông ốm hơn một năm nay, cộng thêm bị cảm cúm nên gia đình tưởng nhà thơ đã không thể qua khỏi đợt đó. Tuy vậy, Hữu Loan vẫn còn nhớ, vẫn đọc được thơ, nhưng không đọc được trọn vẹn, rõ ràng bài Màu tím hoa sim nữa".
Nhà thơ Phạm Xuân Nguyên cho biết thêm, dù sống cuộc đời rất vất vả cực nhọc, Hữu Loan là người cứng cỏi, mạnh mẽ, ít ốm đau, bệnh tật. Những năm cuối đời, chân ông yếu đi nhiều, gần như bị tê liệt do di chứng của những tháng ngày thồ đá nuôi con vất vả, nhưng đầu óc, tâm trí nhà thơ vẫn rất minh mẫn.
Nhà thơ Hữu Loan và vợ. Ảnh: st.
Nhà thơ Hữu Loan và vợ - bà Phạm Thị Nhu. Ảnh: st.
Hữu Loan, tên thật là Nguyễn Hữu Loan, sinh năm 1916 tại làng Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, Thanh Hóa trong một gia đình nông dân nghèo. Sau khi đỗ tú tài, ông sinh sống bằng nghề dạy học. Từ những năm 1940, nhà thơ tham gia cách mạng và từng làm Phó chủ tịch Ủy ban khởi nghĩa huyện Nga Sơn.
Hòa bình lập lại, ông về Hà Nội làm biên tập viên báo Văn Nghệ, tham gia nhóm Nhân văn Giai phẩm... Đến năm 1958, ông về quê, sống bằng nhiều nghề như: làm ruộng, đánh cá, thồ đá... cho đến lúc qua đời.
Hữu Loan viết cả truyện và ký, nhưng ông nổi tiếng nhất ở lĩnh vực thơ ca với những tác phẩm kinh điển như Đèo cả, Màu tím hoa sim... Đặc biệt, những vần thơ khóc người vợ đầu tiên của ông - Màu tím hoa sim - đã làm xúc động trái tim độc giả từ thế hệ này đến thế hệ khác.
Sau khi người vợ đầu, bà Lê Đỗ Thị Ninh qua đời, nhà thơ Hữu Loan kết hôn với người vợ thứ hai, bà Phạm Thị Nhu - người đã cùng ông vượt qua mọi khó khăn, nuôi dạy 10 đứa con nên người.
Màu tím hoa sim
Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh
Tôi người Vệ quốc quân
xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn
nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
đôi giày đinh
bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
bên anh chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến binh
Mấy người đi trở lại
Nhỡ khi mình không về
thì thương
người vợ chờ
bé bỏng chiều quê...
Nhưng không chết
người trai khói lửa
Mà chết
người gái nhỏ hậu phương
Tôi về
không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
thành bình hương
tàn lạnh vây quanh
Tóc nàng xanh xanh
ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuối
không được nghe nhau nói
không được trông nhau một lần
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa
một mình đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa...
Một chiều rừng mưa
Ba người anh trên chiến trường Đông Bắc
Được tin em gái mất
trước tin em lấy chồng
Gió sớm thu về rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió sớm thu về
cỏ vàng chân mộ chí
Chiều hành quân
Qua những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim
những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
tím chiều hoang biền biệt
Có ai ví như từ chiều ca dao nào xưa xa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu
Ai hỏi vô tình hay ác ý với nhau
Chiều hoang tím có chiều hoang biết
Chiều hoang tím tím thêm màu da diết
Nhìn áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu...
Màu tím hoa sim, tím tình trang lệ rớm
Tím tình ơi lệ ứa
Ráng vàng ma và sừng rúc điệu quân hành
Vang vọng chập chờn theo bóng những binh đoàn
Biền biệt hành binh vào thăm thẳm chiều hoang màu tím
Tôi ví vọng về đâu
Tôi với vọng về đâu
Áo anh nát chỉ dù lâu...
(1949, khóc vợ Lê Đỗ Thị Ninh)
Bài thơ này có nhiều dị bản truyền tụng khác nhau, đây đã được xác nhận là bản gốc.
Đến nay, Màu tím hoa sim được xem là một trong những bài thơ tình hay nhất của thế kỷ 20 và là bài thơ đầu tiên được mua bản quyền bởi một doanh nghiệp với giá 100 triệu đồng. Nhưng quanh sự kiện này, cũng không ít độc giả còn thắc mắc về bản cũ và bản mới chỉnh sửa sau này của bài thơ.
Tại Sài Gòn, trước năm 1975, giới văn nghệ sĩ cũng như đông đảo bạn đọc yêu thích thơ nhạc đều rất quen thuộc với bài Màu tím hoa sim của nhà thơ Hữu Loan. Tuy bấy giờ tác giả đang sống ngoài Bắc, nhưng tác phẩm ấy đã chiếm một chỗ đứng trong lòng người yêu thơ miền Nam. Bài thơ được giới thiệu không những qua sách báo, mà còn được phổ nhạc, hát rộng rãi trên đài phát thanh, các buổi trình diễn văn nghệ trên sân khấu đương thời, nhất là vào những năm thập niên 60 của thế kỷ 20. Bản Màu tím hoa sim thời ấy ngắn hơn bản tác giả công bố sau này. Nghĩa là dừng lại, chấm hết ở mấy câu: "Tôi hát trong màu hoa. Áo anh sứt chỉ đường tà. Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu" chứ không có thêm "Tôi ví vọng về đâu. Tôi với vọng về đâu. Áo anh nát chỉ dù lâu..." ở cuối bài như sau này.
So với bản Màu tím hoa sim "nay" thì bản "xưa" tuy ngắn hơn nhưng ý thơ đi rất trọn nghĩa, trọn tình, không trúc trắc, không khiến người đọc phải dừng lại suy nghĩ. Nhà thơ có quyền sửa thơ của mình, hoặc thêm vào những đoạn mới. Song về phía những độc giả đã cảm nhận, yêu thích, hoặc có những kỷ niệm gắn bó với Màu tím hoa sim theo bản cũ thì khó "làm quen" với những đoạn mới, chữ mới, với hơi thơ có vẻ xa lạ với bài thơ từng biết. Do vậy, một số độc giả đã tỏ ra tâm đắc với bài Màu tím hoa sim trước kia. Nhưng dù Màu tím hoa sim bản "xưa" hay "nay" vẫn chỉ để viết về một người, một mối tình.
Đó là người vợ trẻ Đỗ Thị Lệ Ninh đã mất sau ngày cưới không lâu vì chết đuối. Các anh của "nàng", theo tài liệu của Hàn Anh Trúc là 3 người có thực ở chiến trường Đông Bắc. Đó là Đỗ Lê Khôi - tiểu đoàn trưởng hy sinh trên đồi Him Lam, Đỗ Lê Nguyên nay là Trung tướng Phạm Hồng Cư và Đỗ Lê Khang - nguyên Thường vụ Trung ương Đoàn. Hữu Loan kể và Hàn Anh Trúc ghi lại trong một cuốn biên khảo văn học rằng, bố vợ ông trước kia làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên "vợ mình sinh ở trong ấy, quen gọi mẹ bằng má", bài thơ mới có câu "má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối". Hàn Anh Trúc viết là Hữu Loan sáng tác bài thơ ngay tại mộ người vợ trẻ, rồi: "ghi vào chiếc quạt giấy để lại nhà một người bạn ở Thanh Hóa. Bạn anh đã chép lại và chuyền tay nhau suốt những năm chiến tranh". Điều đó đã được chính nhà thơ Hữu Loan xác nhận.